Tìm hiểu hương ước xưa để xây dựng quy ước làng văn hóa nay
XX_NGAYGIO_XX |
Những
năm gần đây, cuộc vận động xây dựng Làng văn hóa, Gia đình văn hóa đã
trở thành phong trào quần chúng rộng khắp trong cả nước. Đảng bộ và
Chính quyền các cấp đã xem cuộc vận động này là một phần quan trọng
trong đời sống tinh thần của nhân dân ta, thiết thực góp phần làm nên
thắng lợi các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Một
trong những nội dung quan trọng trong việc xây dựng Làng văn hóa là:
Làng phải xây dựng được Quy ước văn hóa của làng - đó là những chuẩn mực
ứng xử của từng người dân trong làng, được mọi người thừa nhận và tự
nguyện chấp hành. Mỗi người dân trong làng phải vươn tới các chuẩn mực
văn hóa nhằm hồn thiện bản thân, gia đình và cộng đồng; đồng thời cũng
nhằm ước thúc mọi người dân tự hồn thiện cuộc sống theo các chuẩn mực mà
cộng đồng đã lựa chọn.
Ngày
19/6/1998, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 24/1998/CT-TTg về
việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản, thôn, ấp,
cụm dân cư.
Hy
vọng bài viết ngắn này có thể góp phần giúp mọi người, mọi gia đình,
mọi làng xã hiểu biết thêm về hương ước xưa trong khi chúng ta đang tiến
hành xây dựng những quy ước làng văn hóa trên cơ sở tiếp thu những nét
đẹp của truyền thống văn hóa dân tộc.
Từ
xa xưa trước khi Nhà nước phong kiến Trung ương tập quyền được hình
thành (trước thế kỷ X - XI) các nhóm cư dân tập hợp thành những cộng
đồng làng xã, mỗi cộng đồng đều hình thành những tục lệ, tập quán riêng
và định hình thành lệ làng truyền khẩu, mọi thành viên trong làng có
nghĩa vụ phải tuân theo để đảm bảo cho nhu cầu tồn tại và phát triển của
cộng đồng.
Làng Việt Nam
có một lãnh thổ riêng, chúng ta có thể gọi là một cộng đồng lãnh thổ
xác định. Trong hương ước của làng bao giờ cũng có điều nói đến phạm vi
lãnh thổ của làng bao gồm những đâu; đông, tây, nam, bắc giáp cái gì.
Lãnh thổ này được sở hữu do nhóm người đầu tiên đến khai phá lập làng và
phát triển qua nhiều thời gian với nhiều thế hệ. Mọi thành viên trong
làng phải có nhiệm vụ bảo vệ “tồn vẹn lãnh thổ” của làng mình, chống sự
xâm lấn của làng khác.
Lúc
đầu lệ làng mang tính truyền khẩu, nhưng khi cư dân đông đúc dần, cuộc
sống làng mạc ngày càng phong phú thì tục lệ càng tăng lên để đáp ứng
được những nhu cầu của nhân dân trong cộng đồng. Để giữ được thế thăng
bằng trong làng xã, những quy ước trước kia phải được bổ sung cho phù
hợp. Vì rằng, những quy ước, tập tục truyền miệng sẽ kém hiệu lực, bởi
ai mà nhớ hết được, thống nhất với nhau được những điều này, điều kia về
quy ước ứng xử, về quyền lợi, nghĩa vụ của cá nhân với cộng đồng... Cho
nên, cần phải văn bản hóa những tập tục, tập quán thành những quy định
chi tiết, cụ thể. Bộ tập quán pháp thành văn (mà ta quen gọi là Hương
ước) đã ra đời.
Nội
dung của hương ước khá tồn diện, đề cập gần hết các mặt của đời sống
làng xã và giữ vai trò quan trọng trong sinh hoạt cộng đồng. Có thể coi
đó là “Cương lĩnh về nếp sống” của mỗi làng, là sợi dây cố kết các tổ
chức và thành viên trong làng, góp phần quan trọng trong việc vận hành
của cơ cấu tổ chức làng xã.
Từ
cuối thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX, Nhà nước phong kiến trung ương yếu
dần, làng xã bị phong kiến hóa sâu sắc và hương đảng trong làng trở
thành một “triều đình nhỏ”, làng nào cũng có hương ước riêng cho mình và
lệ làng đối lập với phép vua ngày một sâu sắc hơn.
Phần
mở đầu của các hương ước đều khẳng định: “Nước có luật lệ riêng của
nước, làng có hương ước riêng của làng” phải chăng đây đích thực là lời
tuyên ngôn về quyền tự trị của mỗi làng - một thứ tự trị được người dân
quê diễn đạt bằng câu nói cực kỳ sinh động và phổ biến “Phép vua thua lệ
làng”.
Hầu
hết các điều khoản đầu tiên của mỗi bản hương ước là đặt vấn đề tế tự
lên hàng đầu. Các đình, miếu, đền đài, chùa quán... đặt ở đâu phải trông
nom như thế nào. Các ngày lễ Kỳ yên, Kỳ phúc phải ấn định vào thời gian
nào, phải tổ chức một cách trân trọng ra sao - đó là điều mà nông thôn
Việt Nam rất coi trọng.
Về
chính trị: Hương ước đề cập đến những người có phẩm hàm, chức tước được
nhà nước trao giữ quyền cai trị của làng, đều được ban cho những quyền
lợi nhất định. Các bô lão trong làng cũng được giữ vai trò và vị trí
quan trọng khác nhau trong việc quyết định công việc của làng.
Về
lao động sản xuất: Bao gồm các điều khoản bảo vệ lãnh thổ của làng, bảo
vệ môi trường thiên nhiên bao quanh làng, giữ gìn ao hồ sông suối, bảo
vệ sức kéo cùng các thành quả sản xuất nông nghiệp như lúa và hoa màu.
Các làng đều đặt ra những quy định khá chặt chẽ về thủy lợi, thủy nông,
đắp đê bảo vệ đồng điền và cử ra những người phụ trách các công việc đó.
Về
văn hóa giáo dục: Các hương ước đều quy định về việc giữ gìn và bảo vệ
thuần phong mỹ tục. Quy định về việc thờ cúng, lễ vật thờ cúng, tổ chức
sắp xếp thờ cúng. Các hương ước đều quy định tất cả trẻ em từ 7 tuổi trở
lên phải đi học. Trợ cấp tiền, thóc gạo, giấy bút và cả ruộng đất cho
người dạy học (thầy giáo).
Về
bảo vệ an ninh, trật tự làng xã: Lập ra các điếm canh, trang bị vũ khí
cho tuần đinh, rào làng, tuần tra canh gác ngăn chặn các tệ nạn trộm
cắp, đánh bạc, rượu chè, nghiện hút... Cùng với điều khoản đó là hình
phạt rất cụ thể. Chẳng hạn khi có cháy nhà, sụt đê, có cướp... mọi người
đều phải có trách nhiệm ngăn chặn, chống đỡ. Ai biết mà không tham gia
thì bị phạt kể cả hàng quan viên trở xuống. Chức sắc càng to càng phải
chịu hình phạt nặng. Ngược lại, ai có công, tích cực ngăn chặn, chống đỡ
thì được thưởng.
Các
vấn đề xã hội và phong tục: Hương ước các làng đều đề cập khá chi tiết
mối quan hệ ứng xử giữa các hạng người, giữa mọi người trong làng. Đề
cao yêu thương đùm bọc lẫn nhau giữa bà con làng xóm. Khuyến khích mọi
người ăn ở hòa thuận, có trước có sau, có trên có dưới. Hương ước các
làng đều có quy định quan hệ ứng xử trong gia đình, giữa cha con, vợ
chồng, anh em. Mọi người phải lấy luân lý đạo đức làm trọng. Chồng nói
vợ phải nghe, con cái phải có hiếu với cha mẹ, anh thương em, em kính
trọng anh chị. Gia đình nào sai phạm sẽ bị làng phạt.
Hương
ước cũng đề cao việc giúp đỡ nhau trong đời sống hàng ngày như: Quy
định mọi người phải giúp đỡ người khác làm nhà, đưa ma mà không cần một
lời mời. Ai giúp vào công việc ma chay thì tùy tang chủ biếu bao nhiêu,
biết bấy nhiêu không được đòi hỏi. Việc cưới xin chỉ cho phép gia đình
được soạn có 5 mâm, mỗi mâm chỉ được 1 chai rượu, chứ không cho làm cỗ
bàn linh đình. Trong các đám tang việc soạn mâm cỗ đều nghiêm cấm, ai vi
phạm bị phạt. Chỉ cho phép gia chủ dọn cơm cho những người phu khiêng
quan tài, cầm cờ nếu có điều kiện, nếu không thì chi trả tiền công
(Hương ước thôn Trường Lưu - Can Lộc).
Hương
ước các làng đều có điều khoản đề cao người già, tinh thần trọng lão.
Các làng hàng năm đều có lệ mừng thọ các cụ. Lễ này thường tổ chức sau
tết Nguyên Đán từ mồng 5 đến 15 tháng giêng. Cùng với vấn đề trọng lão
này, hương ước cũng rất quan tâm đến việc đối xử với ông bà, cha mẹ. Các
gia đình ngũ đại đồng đường đều được hàng xóm đến mừng. Còn những con
cháu nào bất hiếu, bất đễ thì đều phải phạt. Hình phạt nặng nhất cho
những người này là bị truất thứ vị trong làng: truất xuống ba bàn, xem
ngang với kẻ có tội trộm cướp.
Ai
viết vẽ bậy lên tường các chùa, đình sẽ bị xử phạt, ai vi phạm Lý,
Hương bắt được phạt 1 đến 2 đồng và phải đem vôi quét lại tường. Nếu
viết, vẽ bậy có dụng ý chạm đến người khác trong làng, nhất là chức dịch
thì không những bị phạt gấp đôi, mà còn bị đánh 20 roi.
Nhiều
hương ước còn đề cập đến việc giúp đỡ nhau lúc ốm đau, hoạn nạn như:
Trong làng có ai bị bệnh khẩn cấp mà không có thân nhân lo liệu thuốc
thang thì người lân cận phải trông nom dùm hộ, hay thấy người qua đường
mà bị bệnh nguy cấp tức thời thì phải báo cáo với Lý dịch để đem tới nhà
thương, thầy thuốc để điều trị, nếu thấy mà lơ đi thì phạt tiền 2 quan,
phạt dịch 2 ngày.
Về
việc thưởng phạt của hương ước: bên dưới từng điều khoản đều có ghi
việc thưởng hay phạt với từng cá nhân có công hay có tội trong việc thực
hiện lệ làng.
Cuối các bản hương ước đều đề cập đến quy định soạn thảo, sửa đổi, bổ sung, bảo quản và duy trì của hương ước.
Sau
Cách mạng tháng Tám năm 1945, để xây dựng xã hội mới, chúng ta chủ
trương xóa bỏ mọi tàn dư của chế độ cũ và từ đó về sau các làng không
còn duy trì hương ước. Cũng do quá mặc cảm với câu “phép vua thua lệ
làng” mà chúng ta chỉ nhìn nhận, đánh giá hương ước thiên về những yếu
tố tiêu cực như những quy định về ngôi thứ, khao vọng, phạt vạ, đình đám
với những tục lệ lạc hậu; mà chưa biết gạn đục khơi trong cho phù hợp
với thời đại.
Nếu
nhận thức đầy đủ và biết kế thừa di sản văn hóa truyền thống qua hương
ước, biết gạn đục khơi trong để tìm ra những yếu tố tích cực trong những
quy định về bảo vệ và phát triển sản xuất, bảo vệ trật tự trị an, về
phát triển văn hóa, giáo dục, giữ gìn thuần phong mĩ tục, kế thừa di sản
dân chủ làng xã... thì chỉ có lợi cho việc đưa hiến pháp, pháp luật vào
cuộc sống khi cơ chế làng xã vẫn đang tồn tại./.