Nguyễn Tấn Dũng, kỳ vọng và thất vọng
Minh Diện
Một năm sau, ngày 25-7-2007, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tái đắc cử, với số phiều gần như tuyệt đối 96,96%. Đến thời điểm đó Nguyễn Tấn Dũng là một Thủ tướng trẻ nhất Việt Nam.
Ông sinh ngày 17-11-1949,
nhằm ngày 27 tháng 9 năm Kỷ Sửu, cung Càn, cầm tinh con trâu, mạng tích
lịch hỏa, thường là tuổi của những người lãnh đạo bẩm sinh, có đặc tính
thể hiện cái tôi mạnh mẽ, không chịu nhường nhịn ai, không cho ai cản
đường, độc đoán chuyên quyền, bảo thủ cố chấp, không nghe lời khuyên
chân thành mà dễ xiêu lòng vì nịnh nọt, tình tình dễ nổi nóng, nên có
khi phá hỏng hình ảnh của mình.
Với một khuôn mặt đầy đặn, thường là tươi tắn, trang phục
chỉn chu, nói năng lưu loát, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng không bị lép khi
đứng bên cạnh Thủ tướng các nước trong khu vực, thậm chí với các
nguyên thủ quốc gia phương Tây. Ông có phong thái ngoại giao chững
chạc, không luống cuống như người tiền nhiệm, cũng chưa có những câu
nói hớ làm trò cười cho thiên hạ như “nhà hùng biện” Nguyễn Minh Triết.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tạo cho mọi người thấy một gương mặt lãnh đạo trẻ, năng động, và tự tin hơn.
Trong buổi
lễ nhậm chức, Thủ tướng đã khẳng định sẽ đưa nền kinh tế Việt Nam phát
triển bền vững, nâng cao đời sống các tầng lớp nhân dân, điều hành một
chính phủ trong sạch, thực thi dân chủ, công bằng, nếp sống văn minh.
Ông bày tỏ quyết tâm phòng chống tham nhũng, một vấn đề bức xúc nhất,
nan giải nhất mà người tiền nhiệm bó tay, và ông đặt cược sinh mạng
chính trị của mình vào trận tuyến nóng bỏng này: “Tôi kiên quyết và
quyết liệt chống tham nhũng. Nếu tôi không chống được tham nhũng tôi xin
từ chức ngay!” (Phát biểu trong lễ nhận chức Thủ tướng chính phủ 27-5-2007).
Về tự do dân
chủ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề nghị Quốc hội: “ Cần sớm có Luật biểu
tình để nhân dân thực hiện quyền được ghi trong Hiến pháp” (Phát biểu trước Quốc hội ngày 25-11-2011).
Ông khằng định dân chủ là nền tảng của một xã hội công bằng văn minh.
Ông nói: Phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hành dân chủ
rộng rãi, nhất là dân chủ trực tiếp, xây dựng xã hội đồng thuận, cởi mở
” (Trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội Dương Thị Bạch Mai 24-11-2010) .
Đối với chủ
quyền quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên
bố dõng dạc trước Quốc hội : “Chúng ta đã làm chủ ít nhất là từ thế kỷ
17 hai quần đào Hoàng Sa và Trường Sa. Đối với Hoàng Sa, năm 1956,
Trung Quốc đưa quân chiếm đóng các quần đảo phía Đông, năm 1974 , Trung
Quốc dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ đảo Hoàng Sa trong sự quản lý của
chính quyền Sài Gòn . Chính phủ Việt Nam cộng hòa đã lên tiếng phản
đối, lên án việc này và đề nghị Liên hiệp quốc can thiệp. Chính phủ cách
mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam lúc đó, cũng đã ra tuyên bố
phản đối hành vi chiếm đóng của Trung Quốc. Lập trường nhất quán của
chúng ta là, quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, chúng ta có
đủ căn cứ lịch sử và pháp lý để khẳng định vấn đề này” (Phát biểu trước Quốc hội ngày 25-11-2011).
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nổi bật như một ngôi sao sáng.
Nhiều người, trong đó có tôi kỳ vọng ở ông.
Thực tế thời kỳ đầu đắc cử, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã xứng đáng với kỳ vọng ấy.
Nhà phân
tích chiến lược phát triển kinh tế Mỹ, nguyên Chủ tịch hội đồng quan hệ
thương mại Hoa Kỳ – ASEAN, Ernest Bower, nhận xét: “Trong 200 ngày đầu
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tạo cho mọi người thấy một khuôn mặt lãnh
đạo trẻ năng động, quyết đoán, hành động kiên quyết hơn. Ông được giao
nhiều quyến hành hơn và ông tin tưởng vào những quyết định của chính
sách mà ông đưa ra. Ông đã làm cho thế giới có một cái nhìn khác về Việt
Nam!”.
Đúng như vậy!
Bằng nỗ lực của mình, Thủ tướng đã kêu gọi được nhiều nhà đầu tư vào
Việt Nam, đưa vốn đầu tư nước ngoài cao nhất kể từ trước tới nay, bao
gồm vốn đầu tư trực tiếp, và cả đầu tư chứng khoán. Những dự án quy mô
vài trăm triệu đô la xuất hiện trên mặt báo, tạo ra không khí cạnh tranh
sôi động, Việt Nam vượt lên 8 bậc về môi trường hấp dẫn đầu tư.
Về phòng chống
tham nhũng, ông đã cố gắng minh bạch hệ thống hành chính, bớt đi sự
mập mờ trong mối quan hệ xin cho, giao quyền cho chủ động cho địa phương
và cấp dưới. Việc tiến hành điều tra, đưa ra xét xử vụ PMU 18, là
quyết tâm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, bởi, ai cũng biết “nhóm lợi
ích” ấy có ô che rất lớn là Tổng bí thư Nông Đức Mạnh. Kế đó Thủ
tướng không ngần ngại xử lý vụ “ Đề án tin học hóa hành chính nhà nước
112” , một Phó chủ nhiệm văn phòng chính phủ đã phải vào tù.
Về ngoại giao,
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã cải thiện đáng kể uy tín và hinh ảnh đổi
mới của Việt Nam trên diễn đàn quốc tế. Ông phá vỡ khối băng dày 60 năm
giữa Việt Nam và Vatican, một quốc gia nhỏ bé nhưng đầy quyền lực, là
linh hồn của hơn một tỷ tín đồ thiên chúa giáo, trong đó Việt Nam có 6
triệu, là một trung gian quyền lực thế giới, bằng việc tiếp kiến Đức
giáo hoàng Benisdico XVI ở Vatican.
Sự kiện Viêt
Nam là thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO, việc
tổ chức thành công Hội nghị APEC 14, và việc Việt Nam trở thành “Thành
viên không thường trực của Hội đồng bảo an Liên Hiệp quốc” đánh dấu
những mốc son hội nhập và nâng cao uy tín của Việt Nam trong đó có
công lao của Thủ tướng.
Tháng 5-2007
Tạp chí World Business bình chọn Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là 1 trong 20
nhân vật cải cách ở châu Á.
Trong hội
nghị “ Diễn đàn kinh tế thế giới” nhóm họp tại Davos Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng nằm trong nhóm lãnh đạo hạng A.
Đó là những điềm không thể phủ nhận.
Nhưng hình như
có một quy luật, càng nóng nhanh càng mau nguội, ngôi sao càng chói
sáng càng dễ mờ, bởi nguồn năng lượng cạn kiệt. Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng với nhiều bứt phá, muốn rút ngắn công việc một nhiệm kỳ 5 năm
xuống 4 năm, nhưng có lẽ do “giục tốc bất đạt” ông bị va vấp quá nhiều
trong giai đoạn tiếp theo.
Cuộc khủng
khoảng kinh tế toàn cầu như một cơn sóng thần cuốn phăng cả những nền
kinh tế hùng mạnh nhất. Việt Nam đã có quá trình hội nhập, nên cũng bị
ảnh hưởng. Nhưng cùng hoàn cảnh, thậm chí hội nhập sâu hơn, tình hình
chính trị và xã hội, cũng như môi trường khí hậu bất lợi hơn, nhưng các
nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Indonesia, đã ứng phó thích
hợp, nên đáy suy thoái nông và vượt thoát nhanh hơn.
Trái lại Việt Nam vũng xoáy suy thoái dường như không đáy, và không biết đến bao giờ mới vượt lên được?
Có nhiều nguyên
nhân, nhưng sai lầm về hoạch định đường lối và điều hành chính sách
kinh tế vĩ mô là nguyên nhân chính. Và sai lầm náy thuộc Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng.
Ông là Trưởng
ban hoạch định kinh tế của Ban chấp hành trung ương đảng. Ông đã đề
nghị ghi vào văn bản báo cáo trước Đại hội X: “Thúc đẩy việc hình thành
tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước mạnh, hoạt động đa ngành, đa
lĩnh vực, trong đó có một số ngành chính, có nhiều chủ sở hữu, trong đó
chủ sở hữu nhà nước giữ vai trò chi phối” .
Hệ lụy của nền kinh tế vĩ mô bắt nguồn từ quan điểm này.
Thực ra nó
không mới, mà đã nhen nhúm từ những năm đầu thập kỷ 90, khi Đỗ Mười làm
Tổng bí thư, và ông Võ Văn Kiệt làm Thủ tướng. Đỗ Mười sau khi thăm Hàn
Quốc, đã nảy ra ý tường “Một nền kinh tế phát triển phải có những quả
đấm thép!”. Để thực hiện ý tưởng Đỗ Mười, một nửa số Ủy viên Bộ Chính
trị nhiệm kỳ đó, đã khăn gói sang Hán Quốc “tầm sư hoc đạo”, và cảm
thấy choáng ngợp bởi mô hình Chealbot.
Ông Võ Văn
Kiệt cũng tán thành, nhưng khá thận trọng, nên chỉ ban hành hành hai
quyết định 90, 91, thành lập thí điểm tập đoàn kinh tế mạnh. Năm 1997,
Phan Văn Khải thay ông Võ Văn Kiệt, nhút nhát hơn, nên 9 năm sau mới
cho ra đời được 3 tập đoàn là: Tập đoàn công nghiệp than – Khoáng
26-12-2005, Tập đoàn bưu chính viễn thông 09-01-2006, Tập đoàn công
nghiệp tàu thủy Vinashin 15-05-2006. Ông Phan Văn Khải đã ký quyết định
cho Vinashin vay 700 triệu đô la với kỳ vọng ngành đóng tàu Việt Nam
ngoi lên hàng đầu thế giới.
Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng với tư duy bứt phá, đầy nhanh tốc độ phát triển tập
đoàn mạnh. Nhậm chức ngày 27-6 ngày 29-8-2006 ông ký quyết định thành
lập Tập đoàn dầu khí, ngày 3-10, Tập đoàn cao su và, đến năm 2011 đã có
13 “quả đấm thép” đã ra đời.
Các tập
đoàn với chức năng đa ngành nghề, nên mạng lưới tỏa rộng khắp mọi nơi,
lại có quyền liên doanh liên kết, quyền độc lập hoạch định chiến lược
phát triển và cấu trúc kinh tế nên không ai kiểm soát được. Hai ngành mà
các tập đoàn hăng hái đầu tư nhất là bất động sản và ngân hàng. Các trụ
sở ngân hàng thương mại cổ phần mọc lên như nấm, giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất chất đầy các ngăn tủ mỗi tập đoàn.
Trụ sở các
tập đoàn hoành tráng mọc lên như ganh đua với tòa nhà chọc trời
Petroland của Tập đoàn dầu khí, những ông chủ tập đoàn vừa khoác áo quan
chức, đầy quyền uy, lại vửa khoác áo doanh nhân tha hồ buông thả, dưới
một người, trên muôn người, xài tiềm xả láng.
Một tập đoàn
ra đời vốn tự có nhiều lắm là trăm tỷ đồng, chủ yếu là nhà cửa đất
đai của nhà nước, nên hầu như 100 % vốn hoạt động vay ngân hàng, dưới sự
bảo trợ của chính phủ. Trên thế giới không có bất kỳ một tổ chức kinh
tế nào được ưu ái như những tập đoàn kinh tế Việt Nam, được mệnh danh là
vai trò chủ đạo nền kinh tế của đất nước, được nhà nước bao bọc từ A
đến Z, như những đứa con cưng được nha mẹ chăm bẵm! Hầu như toàn bộ
ngân sách dành cho phát triển kinh tế, cả nguồn vốn ODA, đều ném vào
các tập đoàn , ngân sách cạn thì đi chính phủ bảo lãnh cho vay nước
ngoài. Xin lấy ví dụ một tập đoàn điển hình là Vinashin.
Ngay khi
thành lập, Vinashin đã sược vay 700 triệu đô la. Sau 4 năm hoạt động
tập đoàn này vay thêm 80.000 tỷ nữa. Không biết họ làm ăn ra sao,
nhưng khi nghe Chủ tịch Hội đồng quản trị Phạm Thanh Bình kêu than không
được phát hành tín phiếu, Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng sửng cồ lên :
“Ai không cho các anh làm tín phiếu?” . Và sau đó 10.000 tỳ đồng tín
phiều chính phủ được bơm thẳng vào cái tàu không đáy Vinashin.
Ngày đó tôi
được biết có người đã thẳng thắn can gián Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng,
nhưng ông tin Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng hơn.
Trước kia
chính phủ có một bộ phận tư vấn kinh tế, đứng đầu là tiến sỹ Lê Đăng
Doanh, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã dẹp bỏ, thay các chuyên gia kinh tế
bằng những chuyên gia luật pháp như thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng, hình
như đó cũng là một nguyên nhân dẫn đến những bất cập trong những quyết
định về kinh tế và những quyết định mất lòng dân về tự do dân
chủ?
Khi Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng nhậm chức, ông có trong tay 23 tỷ đô la vốn dự
trữ, đó là số tiền không nhỏ, tích cóp được qua nhiều năm từ thuế của
dân và tài nguyên của đất nước. Khi nền kinh tế lâm vào tình trạng
thiểu phát, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tung ra một gói kích cầu
143.000 tỷ đồng tương đương 8 tỷ đô la. Nhưng nguồn tiền khổng lồ ấy
chảy không đúng các mục tiêu, nên không có khu vực kinh tế nào được
khởi sắc. Nó chỉ chỉ có ít tác dụng vào cuối năm 2009, rồi bị hụt hẫng
ngay khi bước sang năm 2010.
Tiền dự trữ
quốc gia bung ra làm bội chi ngân sách tăng vọt, và tình trạng bất ổn
xuất hiện ngay từ khi nền kinh kế nhìn bề ngoài có vẻ còn hưng vượng.
Trước năm
2006 tổng đầu tư nhà nước lớn nhất không vượt quá 36 % GDP, năm 2007
tăng vọt lên 44% và 2008 lên 47%. Vốn đầu tư tăng vọt kéo theo tăng
trường tín dụng , năm 2006 : 21,4%, 2007: 38,7% và đó là lực đẩy con
tàu lạm phát tăng tốc .
Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng muốn hãm phanh con tàu lạm phát bằng biện pháp nâng dự
trữ bắt buộc của ngân hàng và thắt chặt chi tiêu, nhưng hình như đó chưa
phải là một liều thuốc đúng, hơn nữa do sức mạnh quyền lực bị hạn chế,
bị các nhóm lợi ích chi phối, nên không có tác dụng, tỷ lệ lạm phát từ
9,9 % năm 2008 leo lên 12,3 % năm 2009, rồi 16,2% năm 2010, 17,5%
năm 2011 và 18,2% mấy tháng đầu năm 2012.
Lợi dụng
đục nước béo cò, nhóm lợi ích tài chính ra tay đục khoét ngân hàng, bẻ
gãy xương sống của nền kinh tế! Tiền từ ngân hàng nhà nước tuồn cho
ngân ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng này chuyền tiền qua ngân
hàng kia, tạo ra cái “đèn cù ngân hàng” loanh quanh “kinh doanh tiên
ftệ”, ăn lãi suất chênh lệch. Lãi suất huy động hạ cực thấp bóp chẹt
dân, lãi suất cho vay lại tùy sự thỏa thuận. Những gói kích cầu hàng
chục ngàn tỷ đống tiếp theo trở thành miếng mồi béo bở cho các nhóm lợi
ích. Những Nguyễn Đức Kiên, Trần Xuân Giá chưa phải là trùm của băng
nhón tội phạm này, và Thống đốc Nguyễn Văn Bình không phải vô can khi để
cho các băng nhóm thâu tóm ngân hàng!
Ngày 25-5
-2012, Thủ tướng ban hành Nghị định 24 , là cú đòn quyết định hạn chế
lạm phát, ổn định thị trường vàng nói riêng, giá cả nói chung, nhưng đó
lại là một cú sốc gây phản ứng trái chiều.
Bức tranh
kinh tế Việt Nam tôi đã mô tả trong bài viết trước, nay chỉ xin ghi lại
tấm biểu đồ tăng trường kinh tế Việt Nam, tôi nghĩ đây cũng là “tấm
biểu đồ sụt giảm uy tín của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng”: Năm 2002 :
7,08%; 2003: 7,34 %; 2004: 7,79 %; 2005: 8,44 %; 2006: 8,38 %; 2007:
8,23 %; 2008: 6,31 %; 2009: 5,32 %; 2010: 6,78 %; 2011: 5% và năm 2012
chỉ còn 5,03 %.
Nhưng sa sút về
kinh tế, chưa hẳn đã là nguyên nhân chính làm mọi người thất vọng về
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Sự thất vọng lớn hơn vế ông là những quyết
định, lời nói và việc làm của ông không nhất quán. Hâu fnhư việc gì, ở
đâu ông vẫn cố gắng nói hay, nói cho lọt tai người khác, diễn đạt khúc
chiết, hứa ngon hứa ngọt, nêu quyết tâm cao, việc gì cũng “quyết liệt”,
nhưng nhiều vấn đề sau khi “quyết” là bị “liệt” luôn. Nói hay, làm dở,
nói mạnh nhưng không làm là đặc điểm nổi bật của Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng đã được dư luận đúc kết.
Ông nói phát
huy quyền làm chủ rộng rãi, nhưng ông lại ký chỉ thị 37: “ Kiên quyết
không để tư nhân hóa dưới mọi hính thức, không để bất kỳ tổ chức, cá
nhân nào lợi dụng, chi phối báo chí phục vụ lợi ích riêng”. Ông lên án
Trung Quốc chiếm biển đảo Việt Nam nhưng ngay sau đó lại đồng tình cho
chính quyến thành phố Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh đàn áp và vu cáo người biểu
tình là gây rối ! Ông nói như đinh đóng cột là không chống được tham
nhũng sẽ từ chức ngay, nhưng khi thất bại, thì không nói lại một lời
với dân cho phải đạo, cho có trước có sau!
Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng cũng quá dễ dãi trong ban phát chức tước quyền hành cho ba
người con của mình. Nhẽ ra với cương vị một người đứng đầu chính phủ ông
phải biết tự kiềm chế cái tiểu tiết để giữ cái đại cục, như Khổng từ
nói: “Đừng đừng để con dê béo che mất trái núi!”.
Người ta đã nói
đi nói lại lời trần tình của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại kỳ họp Quốc
hội, tôi cho đó là lúc ông nói thật nhất, bởi nếu không, ông sẽ có một
cách nói khác.
Tuy nhiên từ đó
tôi nghĩ, nếu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng rộng lượng với dân, với người
khác, như rộng lượng với bản thân, với vợ con, anh em nội ngoại của
mình thì dù ông có là X, là Y gì đi nữa, ông vẫn dành được tình cảm của
nhiều người. Đáng tiếc việc hành xử của ông trong vụ án tiến sỹ Cù Huy
Hà Vũ, và mới đây nhất, cho công bố bản kết luận của Thanh tra chính phủ
về sai phạm đất đai của thành phố Đà Nẵng, gây nhiều phản cảm. Hình
như điều này ứng vào tính cách của người tuổi Kỷ Sửu, mà tôi đã trình
bày ở trên: “Không nghe lời khuyên chân thành lại dễ xiêu lòng bời lời
nịnh nọt, và dễ nổi nóng nên có khi phá hỏng hình ảnh của mình”! Hai
nhiệm kỳ Đại hội IX và X Đảng đã gần như khoán trắng, giao quá nhiều
quyền cho Chính phủ. Gần 20 năm giữ trọng trách như Phủ Chúa ở Ba Đình,
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lúc đầu có những biểu hiện đem lại sự kỳ vọng
không chỉ trong nước mà còn có cảm tình với một số chính khách trên thế
giới. Nhưng từ năm 2012, ông đã làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân cả
nước phải thất vọng.
Nhân ngày 22-12-2012 ông Ba
Dũng đã xem vở “Lời thề thứ Chín”. Ba điều quan trọng nhất trong lời thề
ấy là “Kính trọng dân, bảo vệ dân, giúp đỡ dân”, tôi hy vọng ông Ba
Dũng không quên điều đó.