Việt Nam mỗi năm có cả trăm người được phong tướng nhưng hỏi có tướng nào có trí lự và bản lĩnh như tướng Lê Văn Cương? Chắc không.
Tướng Lê Văn Cương: “Tại sao Việt Nam mạnh? Tại sao Việt Nam yếu?”
Phúc Hưng thực hiện
Ông có bất ngờ trước việc Philippines xúc tiến khởi kiện Trung Quốc ra tòa án trọng tài Liên hiệp quốc?
Thiếu tướng Lê Văn Cương: Tôi không bất ngờ về việc này. Tranh chấp biển đảo,
biên giới lãnh thổ thông thường trên thế giới có 3 cách giải quyết.
Cách thứ nhất là thương lượng, nhân nhượng nhằm đi đến kết cục hóa giải
được mâu thuẫn. Trong trường hợp Philippines, Manila có đủ niềm tin rằng
Bắc Kinh sẽ không nhân nhượng và thương thảo sẽ không có hiệu quả. Họ
quyết định chọn phương thức thứ 2, mang ra tòa án quốc tế hy vọng vào
cán công công lý sẽ giúp đỡ.
Trường hợp Philippines với Trung
Quốc rơi vào tranh chấp chênh lệnh nhiều mặt. Phải tranh chấp với một
bên lớn hơn nhiều lần, trong hoàn cảnh Philippines, lựa chọn như vậy là
hoàn toàn đúng.
Còn phương thức thứ 3 là sử dụng vũ lực để giải quyết thì thời điểm hiện nay, đây chưa phải giải pháp thích hợp.
Dĩ nhiên, dù có đưa ra tòa án
quốc tế thì Manila vẫn không thể từ bỏ quan hệ song phương với Trung
Quốc và không loại trừ phương thức thương thảo.
Nhiều người dân đang tự đặt câu hỏi: Tại sao bấy lâu nay Việt Nam không làm như Philippines?
Thiếu tướng Lê Văn Cương: Tôi
cũng biết nhiều người quan tâm và đặt vấn đề như vậy. Họ có thể sốt ruột
nhưng trong vấn đề chủ quyền, cần phải tỉnh táo, căn cứ vào điều kiện
cụ thể của Việt Nam. Dĩ nhiên, chúng ta sẽ không từ bỏ phương thức kiện
ra tòa án quốc tế nhưng tôi cho rằng, lúc này chưa phải thời điểm thích
hợp. Lý do là vì, mối quan hệ Việt – Trung có 3 khác biệt.
Thứ nhất, Việt Nam là láng giềng
trực tiếp với Trung Quốc, hai quốc gia có đường biên giới đất liền 1435
km, điều này Philippines không có. Dù một triệu hay một tỷ năm nữa,
người hàng xóm đó với chúng ta vẫn là “núi liền núi, sông liền sông”.
Người ta có thể thay đổi bạn bè
nhưng láng giềng thì không. Điều này không bao giờ được phép lãng quên
trong quan hệ Việt – Trung.
Thứ 2, trong lịch sử, rõ ràng
Trung Quốc và Philippines cũng không có ân oán gì cả, còn Việt Nam và
Trung Quốc thì có hơn 1000 năm quan hệ song phương với bao trắc trở. Đặt
dấu mốc năm 1859 khi Pháp đặt ách đô hộ ở Việt Nam, trở về trước đó dân
tộc Việt Nam chủ yếu đương đầu với tham vọng xâm chiếm cương thổ của
các triều đại phong kiến Trung Quốc.
Trong cuộc trường chinh kháng
chiến chống Pháp 1945- 1954, rồi sau đó là kháng chiến trường kỳ chống
Mỹ đến năm 1975, chúng ta được Đảng và nhân dân Trung Quốc ủng hộ rất
tuyệt vời, cả về vật chất, tinh thần, chính trị, an ninh, văn hóa… Nhân
dân Việt Nam sẽ không bao giờ quên ân tình này. Điều đó, quan hệ Trung
Quốc – Philippines không bao giờ có được.
Thứ 3, Việt Nam và Trung Quốc nằm trong hệ thống chính trị gần gũi nhau. Và đương nhiên, điều này cũng khác với Philippines.
Với 3 điểm khác này, mặc dầu
Philippines lựa chọn như vậy nhưng Việt Nam chưa thể làm điều đó, ít
nhất là trong giai đoạn hiện nay.
Ta vẫn tối đa vận dụng khai thác
mối quan hệ song phương để giải quyết khác biệt. Nhưng cùng với đó,
việc chuẩn bị thật tốt cho phương thức mà Philippines đang áp dụng, cũng
là điều dễ hiểu.
Vậy theo ông, điều mà Philippines đang rốt ráo làm sẽ mang lại cho Việt Nam bài học, kinh nghiệm gì?
Thiếu tướng Lê Văn Cương: Tôi
xin khẳng định, cũng chẳng cần Manila kiện Bắc Kinh ra tòa án quốc tế
thì chúng ta mới có bài học, hay chuẩn bị hồ sơ cho khả năng phải kiện.
Trong hơn 1000 năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, Việt Nam đã được tôi
luyện qua rất nhiều bài học trong quan hệ với “người hàng xóm” Trung
Quốc.
Tôi khẳng định, phương án này luôn được chúng ta chuẩn bị chu đáo.
“Dĩ bất biến, ứng vạn biến”
Thiếu tướng Lê Văn Cương: Có
nhiều đồng bào hỏi tôi rằng, trong mối quan hệ Trung – Việt hiện nay, 16
chữ “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới
tương lai” nên hiểu và vận dụng như thế nào? Tôi trả lời rằng, có 2
điều chúng ta luôn nói công khai: thứ nhất, Việt Nam không bao giờ kích
động tinh thần dân tộc chủ nghĩa chống Trung Quốc. Và thứ hai, Việt Nam
không kéo bè kéo cánh, liên kết với bất kỳ quốc gia nào để chống Trung
Quốc.
Theo 2 điều này, chúng ta có
quyền làm mọi việc chúng ta cần phải làm để giữ gìn phẩm giá dân tộc,
công lý, bảo vệ cho được đất đai hương hỏa của cha ông. Chúng ta phải
làm để nhà cầm quyền Trung Quốc thấy rằng đó là cương thổ của một quốc
gia có chủ quyền; họ phải thấy rõ, Trung Quốc là Ủy viên thường trực Hội
đồng bảo an Liên hiệp quốc thì càng phải làm gương.
Khi họ làm sai, chúng ta phải phản đối với lý lẽ sắc sảo, chứng lý rõ ràng như tôi nói ở trên, để cả thế giới biết.
Và 16 chữ “Láng giềng hữu nghị,
hợp tác toàn diện, ổn định lâu dầu, hướng tới tương lai” là sách lược
nhưng tuyệt đối không được để ai lợi dụng 16 chữ ấy để xâm phạm chủ
quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam. 16 chữ ấy là “ứng
vạn biến”, “dĩ bất biến” là chủ quyền, không kẻ nào được phép bán rẻ chủ
quyền quốc gia.
Tuyệt đối không được để “ứng vạn biến” thay thế cho những điều thuộc về “dĩ bất biến”.
Trong bối cảnh đó, nhiều
người đang lo ngại, những phát biểu cứng rắn từ các giới chức quân sự
“diều hâu” của Trung Quốc sẽ ảnh hưởng tới mối quan hệ Việt – Trung?
Trước thái độ hung hăng hiếu
chiến của một số người Trung Quốc, chúng ta phải bình tĩnh. Trong số hơn
1 tỷ 300 triệu người Trung Quốc, tuyệt đại đa số là người tốt, nhân
hậu. Những người này không có lợi ích gì trong việc Trung Quốc gây hấn
với Việt Nam cũng như gây hấn với các nước khác.
Và tôi tin rằng, trong hơn 3
triệu quân nhân Trung Quốc, tuyệt đại đa số trong số đó cũng không muốn
gây sự với Việt Nam bởi bản thân họ không được lợi gì cả. Ngay trong
lãnh đạo cấp cao Trung Quốc thì không phải tất cả họ đều muốn gây sự với
Việt Nam. Chúng ta không vơ đũa cả nắm.
Trong công tác đầu tranh, chúng
ta phải đấu tranh bằng nhiều cách: con đường ngoại giao và tận dụng mọi
cái có thể tận dụng được.
Nếu họ có các hành động xâm phạm
chủ quyền của Việt Nam thì phải triệu Đại sứ của họ lên để phản đối,
gửi Công hàm và tuyên bố cho cả thế giới biết. Việt Nam không bao giờ
kích động chủ nghĩa dân tộc để chống lại Trung Quốc nhưng trách nhiệm
của Nhà nước ta là phải nói để cho dân biết, thế giới biết.
Một đại thi hào Trung Quốc đã
từng nói đại ý rằng: “Triều đình phong kiến (Trung Quốc – PV) một vạn
năm nay, người ta tàn bạo như con hồ ly nhưng nhát gan như con thỏ rừng
trước kẻ mạnh”.
Hàng nghìn năm nay, Trung Quốc
là quốc gia mềm nắn rắn buông: nước nào không vững vàng thì Trung Quốc
tiến, còn nước nào vững thì Trung Quốc cũng không dám tiến. Trung Quốc
có thói quen bắt nạt các nước yếu và đó là sở trường của họ.
Ông đánh giá gì trước bình luận: Trung Quốc như một chú hổ vừa thức dậy sau khi giấc ngủ dài, nay sẵn sàng giương móng vuốt?
Đó là sai lầm và những ai
tin vào sức mạnh của thứ móng vuốt đó sẽ phải trả giá về điều này. Thời
buổi này, không phải muốn làm gì thì làm.
Sắp tới đây, nếu họ mà giương cung ra, họ sẽ chuốc phải thất bại thảm hại.
Thời gian vừa qua, Trung Quốc
liên tục thông tin về việc diễn tập quân sự tại Biển Đông, bổ sung tàu
lớn cho lực lượng Hải giám, Ngư chính hoạt động tại Biển Đông… Ông nhận
định gì về động thái này?
Tướng Lê Văn Cương: Trước các
động thái của Trung Quốc ta phải phân biệt rõ ràng. Nếu việc tập trận
trong phạm vi lãnh hải của họ và không ảnh hưởng gì đến các nước khác
thì đó là quyền của họ. Trung Quốc là quốc gia biển và việc người ta
thực hiện công tác quản lý nhà nước trên biển bằng cách dùng tàu hải
giám, ngư chính trong khu vực cho phép theo Công ước Quốc tế về Luật
biển 1982 (UNCLOS 1982) là bình thường.
Vấn đề ở chỗ, nếu tàu này tàu
kia của Trung Quốc lao vào cắt cáp tàu thăm dò dầu khí trên vùng đặc
quyền kinh tế của Việt Nam thì chúng ta kiên quyết phản đối.
Chúng ta phải phản đối với nhiều
hình thức, cấp độ khác nhau: thứ nhất là triệu đại sứ, gửi công hàm
phản đối. Nếu nghiêm trọng hơn, ngoại trưởng, thủ tướng, chủ tịch nước
có thể gửi công hàm phản đối Trung Quốc.
Trong đó, chúng ta phải ghi rõ
sự việc vi phạm nghiêm trọng đó xảy ra tại khu vực nào, tọa độ nào, tham
chiếu vào luật pháp quốc tế là vi phạm điểm nào. Đặc biệt, điều này
phải công bố rộng rãi cho toàn dân ta và thế giới biết.
Thời gian gần đây, một số học giả đưa ra chủ đề tranh luận “Việt Nam lớn hay nhỏ?” Ông đánh giá gì về điều này?
Đưa ra bàn luận như vậy là dở.
Tại sao lại đưa ra vấn đề này, nếu chỉ nhìn vấn đề như thế thì làm sao
giải thích được trường hợp của Israel. Đất nước với chưa đến 9 triệu dân
này, nằm trong lòng 170 triệu người dân Ả Rập nhưng bao năm vẫn vững
vàng sau bao sóng gió.
Điều cần phải bàn là “Tại sao Việt Nam mạnh? Tại sao Việt Nam yếu?”.
Nhiều người trong nước đang ngụy
biện rằng, Trung Quốc lớn quá, Việt Nam không thể làm gì hơn được. Điều
đó là hoàn toàn sai lầm. Trong lịch sử, từ năm 179 trước Công nguyên,
khi An Dương Vương thất bại trước Triệu Đà, đến giờ đã hơn 2200 năm,
không có lúc nào Trung Quốc yếu hơn Việt Nam.
Thậm chí, thời nhà Minh Trung
Quốc, tương quan chênh lệch với Việt Nam lên tới 100 lần. Từ thời điểm
đó, tướng Trịnh Hòa – Trung Quốc đã dong thuyền tới châu Mỹ. Nhưng họ
vẫn đại bại trong cuộc kháng chiến của dân tộc Việt, dưới sự lãnh đạo
của Lê Lợi, Nguyễn Trãi.
90 triệu dân Việt đã luôn chứng
tỏ sức mạnh của mình trước giông bão lịch sử. Đúng như Đức Thánh Trần,
trước lúc lâm chung có nói với vua Trần: “Khoan thư sức dân, trên dưới
đồng lòng anh em hòa mục”. Và Đảng ta thực sự trong sạch vững mạnh, gắn
bó máu thịt với dân, nhà nước mạnh, quan chức công chức đều là công bộc
của dân… đó là khi Tổ quốc ta mạnh nhất, sẽ không kẻ nào dám xâm phạm bờ
cõi.